Lịch sử Tiếng_Slav_Giáo_hội_cổ

Trong trang từ Triod' cvetnaja (1491), thư viện quốc gia Ba Lan, một trong những quyển sách Byzantine-Slav cổ nhất.

Tiếng Slav Giáo hội cổ được chuẩn hóa trong quá trình truyền giáo. Vì mục đích này, Kyrillô và Mêthôđiô (Cyril và Methodius) bắt đầu dịch những tác phẩm văn học tôn giáo ra OCS, có lẽ dựa trên những phương ngữ Slav được nói tại quê hương của họ, Thessalonica,[4] nay là Thessaloniki, Hy Lạp.

Năm 885, để phổ biến tiếng Latinh, việc sử dụng tiếng Slav Giáo hội cổ tại Đại Moravia bị cấm đoán bởi Giáo hoàng Stêphanô V. Học trò của Kyrillô và Mêthôđiô bị trục xuất khỏi Đại Moravia năm 886, họ mang bảng chữ cái Glagolit và tiếng Slav Giáo hội cổ tới Đế quốc Bulgaria thứ nhất. Tại đây, ngôn ngữ này được giảng dạy tại hai trường văn học: trường văn học Preslavtrường văn học Ohrid.[5][6][7] Bảng chữ cái Glagolit ban đầu được sử dụng ở cả hai trường, dù việc dùng bảng chữ cái Kirin, mà sẽ thay thế Glagolit, cũng bắt đầu sớm tại trường văn học Preslav. Tiếng Slav Giáo hội cổ lan rộng ra những vùng người Slav khác ở Đông và Đông Nam Âu, đáng chú ý nhất là Bosnia và Herzegovina, Croatia, Serbia, Bohemia, Tiểu Ba Lan, và các công quốc Rus Kiev. Sau đó, tiếng Slav Giáo hội cổ tại mỗi vùng bắt đầu xuất hiện những đặc điểm của ngôn ngữ Slav địa phương tại vùng đó, và tới thế kỷ 11, tiếng Slav Giáo hội cổ phát triển thành nhiều dạng khác nhau. Những dạng này được gọi chung là tiếng Slav Giáo hội.[8]

Bảng Unicode Glagolit
Official Unicode Consortium code chart: Glagolitic Version 13.0
 0123456789ABCDEF
U+2C0x
U+2C1x
U+2C2x
U+2C3xⰿ
U+2C4x
U+2C5x
Glagolit bổ trợ (Official Unicode Consortium code chart: Glagolitic Supplement)
U+1E00x𞀀𞀁𞀂𞀃𞀄𞀅𞀆𞀈𞀉𞀊𞀋𞀌𞀍𞀎𞀏
U+1E01x𞀐𞀑𞀒𞀓𞀔𞀕𞀖𞀗𞀘𞀛𞀜𞀝𞀞𞀟
U+1E02x𞀠𞀡𞀣𞀤𞀦𞀧𞀨𞀩𞀪